Nông nghiệp hữu cơ (NNHC) là phương pháp sản xuất lương thực nhằm phát triển các hệ thống sản xuất bền vững về mặt môi trường và kinh tế với sự nhấn mạnh vào việc sử dụng các nguồn tài nguyên tái tạo tại địa phương và sử dụng tối thiểu đầu vào. Từ những năm 1970, các sản phẩm hữu cơ đã được bán rộng rãi trên phạm vi toàn cầu và các tiêu chuẩn sản xuất được thực thi theo pháp luật để mang lại lợi ích cho người sản xuất và người tiêu dùng.
Có rất nhiều định nghĩa về NNHC. Đơn giản nhất thì đó là hệ thống sản xuất dựa vào các quá trình sinh thái, như tái chế chất thải, phân hữu cơ (như phân chuồng, phân xanh) và các loại thuốc trừ sâu tự nhiên (ví dụ các loài động vật săn mồi) thay cho các đầu vào tổng hợp như phân hoá học và thuốc trừ sâu. Việc sử dụng kháng sinh và các sản phẩm khác liên quan đến sức khoẻ để chữa bệnh cho vật nuôi, cũng như để tăng năng suất bị hạn chế hoặc không được phép (Ví dụ ở Mỹ, kháng sinh không được phép sử dụng trong các sản phẩm vật nuôi được dán nhãn hữu cơ) [2].
Các định nghĩa khác về NNHC cụ thể hơn nhiều. Ủy ban Tiêu chuẩn thực phẩm Codex của FAO/WHO (1999) định nghĩa: "NNHC là một hệ thống quản lý sản xuất toàn diện nhằm thúc đẩy và tăng cường gìn giữ sự bền vững của hệ sinh thái nông nghiệp, bao gồm đa dạng sinh học, chu trình sinh học và hoạt động sinh học của đất. Nó nhấn mạnh việc sử dụng các thực tiễn quản lý thay vì sử dụng các đầu vào phi nông nghiệp, có tính đến các điều kiện của địa phương. Điều này được thực hiện bằng cách sử dụng, nếu có thể, các phương pháp nông học, sinh học và cơ học, ngược lại với việc sử dụng các yếu tố đầu vào tổng hợp, để hoàn thành bất kỳ chức năng cụ thể nào trong hệ thống".
Liên đoàn quốc tế các phong trào NNHC (International Federation of Organic Agriculture Movements - IFOAM) cho rằng: “NNHC là một hệ thống sản xuất để duy trì sức khoẻ của đất, hệ sinh thái và con người. Nó dựa vào quá trình sinh thái, đa dạng sinh học và chu kỳ thích nghi với điều kiện địa phương chứ không phải sử dụng các yếu tố đầu vào với các hiệu ứng bất lợi. NNHC kết hợp truyền thống, sự đổi mới và khoa học để có lợi cho môi trường và thúc đẩy mối quan hệ công bằng và một cuộc sống chất lượng cho tất cả các bên tham gia”.
Do vậy, một hệ thống sản xuất hữu cơ được thiết kế để:
• Tăng cường sự đa dạng sinh học trong toàn bộ hệ thống;
• Tăng hoạt tính sinh học của đất;
• Duy trì độ màu mỡ lâu dài của đất;
• Tái chế chất thải thực vật và động vật để trả lại chất dinh dưỡng cho đất, do đó, giảm thiểu việc sử dụng các nguồn tài nguyên không thể tái tạo;
• Dựa vào các nguồn tài nguyên tái tạo trong các hệ thống nông nghiệp được tổ chức ở địa phương;
• Thúc đẩy việc sử dụng bền vững đất, nước và không khí cũng như giảm thiểu tất cả các dạng ô nhiễm có thể phát sinh từ các hoạt động nông nghiệp;
• Xử lý sản phẩm nông nghiệp với sự nhấn mạnh vào các phương pháp chế biến thận trọng để duy trì các phẩm chất quan trọng của sản phẩm hữu cơ ở mọi giai đoạn;
• Có thể áp dụng trên bất kỳ trang trại hiện hữu nào thông qua giai đoạn chuyển đổi, khoảng thời gian thích hợp được xác định bởi các yếu tố cụ thể của địa phương như lịch sử đất đai, loại cây trồng và vật nuôi được sản xuất.
Triết lý hữu cơ nhằm bảo vệ môi trường tự nhiên; mối quan tâm đối với các hệ thực vật và động thực vật địa phương như các mục tiêu cho canh tác hữu cơ thường ít được người tiêu dùng và các nhà hoạch định chính sách hiểu rõ. NNHC không có nghĩa là trở lại với các phương pháp truyền thống. Nhiều phương pháp canh tác được sử dụng trong quá khứ đến nay vẫn còn hữu ích. NNHC tận dụng tốt nhất những phương pháp này và kết hợp chúng với kiến thức khoa học hiện đại.
Những người sản xuất NNHC không phó mặc trang trại của họ cho thiên nhiên. Họ sử dụng tất cả các kiến thức, kỹ thuật và vật liệu có sẵn để tương tác với thiên nhiên. Bằng cách này, người sản xuất tạo ra sự cân bằng giữa thiên nhiên và nông nghiệp, nơi cây trồng và động vật có thể tăng trưởng và phát triển.
Để trở thành một người sản xuất hữu cơ thành công, người nông dân không được xem côn trùng như một loại sâu bệnh, các loại cây mọc tự nhiên như cỏ dại và giải pháp cho mọi vấn đề là phun hoá chất nhân tạo. NNHC không nhằm vào mục đích diệt trừ tất cả các loại sâu bệnh và cỏ dại, mà là giữ chúng ở mức chấp nhận được và tận dụng tối đa những lợi ích chúng có thể mang lại.
Trên một nông trại hữu cơ, mỗi kỹ thuật thường không được sử dụng riêng lẻ. Nông dân sẽ sử dụng đồng thời một loạt các phương pháp hữu cơ để chúng cùng có tác dụng nhằm mang lại lợi ích tối đa. Ví dụ, việc sử dụng phân xanh và canh tác thận trọng kết hợp với việc kiểm soát tốt hơn cỏ dại sẽ mang lại hiệu quả cao hơn so với việc chỉ sử dụng các kỹ thuật này riêng lẻ.
Theo IFOAM, NNHC nên được định hướng theo bốn nguyên tắc:
• Nguyên tắc về sức khoẻ: NNHC duy trì sự bền vững và tăng cường sức khỏe của đất, động thực vật, con người và hành tinh như một thể thống nhất và không thể tách rời;
• Nguyên tắc về hệ sinh thái: NNHC dựa vào sức sống và chu kỳ của hệ sinh thái, nó hoạt động, mô phỏng và giúp cải thiện hệ sinh thái;
• Nguyên tắc về tính công bằng: NNHC được xây dựng trên những mối quan hệ đảm bảo sự công bằng và quan tâm tới môi trường chung cũng như các điều kiện sống, các cơ hội sống phù hợp cho tất cả, kể cả vật nuôi và cây trồng;
• Nguyên tắc về sự cẩn trọng: NNHC được quản lý một cách thận trọng và có trách nhiệm để bảo vệ sức khoẻ và an sinh của các thế hệ hiện tại và tương lai và môi trường .