Nhằm đưa ra được các giải pháp giảm phát thải khí thải nhà kính, tăng trưởng xanh, tiến tới kinh tế cac-bon thấp và khuyến khích sử dụng năng lượng hiệu quả, PGS.TS. Nguyễn Minh Đức và nhóm nghiên cứu Trường Đại học Hàng hải Việt Nam đã thực hiện Đề án: “Xây dựng giải pháp tổ chức, quản lý, khai thác vận tải biển theo hướng tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải phù hợp với quy định của Phụ lục VI, Công ước MARPO” (Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu gây ra).
.jpg)
Đề án đã phân tích, đánh giá được hoạt động sử dụng năng lượng trên tàu biển, hiện trạng giám sát lượng tiêu thụ nhiên liệu từ tàu biển Việt Nam. Đồng thời, nhóm nghiên cứu đã xây dựng quy trình, biểu mẫu, hướng dẫn và bộ công cụ hỗ trợ quản lý, theo dõi tình hình sử dụng nhiên liệu và phát thải chất gây ô nhiễm không khí từ tàu biển Việt Nam. Đề tài đã xây dựng quy trình và bộ công cụ hỗ trợ lập kế hoạch tổ chức, quản lý, khai thác tối ưu đội tàu.
Nhóm nghiên cứu đã xây dựng mô hình và thử nghiệm tại Trung tâm Dịch vụ tư vấn sử dụng năng lượng hiệu quả và bảo đảm an toàn hàng hải; tổ chức đào tạo cho thuyền viên nhằm hỗ trợ các công ty vận tải biển nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, giảm tiêu hao nhiên liệu và tăng trưởng xanh đảm bảo đạt hiệu quả cao, phù hợp với nhu cầu của các công ty tàu biển Việt Nam.
Hệ thống có giao diện dễ sử dụng, phù hợp với điều kiện của các chủ tàu Việt Nam giúp tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp vận tải biển trong nước tiếp nhận được các dịch vụ tư vấn hữu ích, giúp tiết kiệm các khoản chi phí cho chủ tàu. Đặc biệt, mô hình Trung tâm Dịch vụ Tư vấn sử dụng năng lượng hiệu quả và bảo đảm an toàn hàng hải được các tổ chức cá nhân triển khai thử nghiệm đánh giá cao. Đây là mô hình có tính ứng dụng cao, đem lại hiệu quả kinh tế, giảm phát thải khí thải từ đội tàu biển.
Việc áp dụng mô hình Trung tâm Dịch vụ Tư vấn sử dụng năng lượng hiệu quả và bảo đảm an toàn hàng hải góp phần thực hiện cắt giảm khí thải nhà kính (theo cam kết của Chính phủ COP24) và nghĩa vụ quốc gia thành viên của Phụ lục VI Công ước MARPOL 73/78.
Toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu của Đề tài (Mã số 19158/2020) tại Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia.
Theo most.gov.vn
Những năm qua, tỉnh Phú Thọ đã xác định nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật là “chìa khóa” để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp. Từ việc áp dụng đồng bộ công nghệ hiện đại, đổi mới phương thức canh tác đến phát triển sản xuất theo hướng hàng hóa tập trung quy mô lớn, nông nghiệp Phú Thọ đang từng bước chuyển mình mạnh mẽ, khẳng định vai trò trụ cột của khu vực kinh tế nông nghiệp trong tiến trình phát triển bền vững.
Khoảng chục năm trở lại đây, vùng sơn cước Lai Đồng “trình làng” giống quýt đặc sản được người tiêu dùng khắp các vùng miền ưa chuộng, cất công tìm kiếm dù giá bán cao hơn hẳn các giống quýt quen thuộc trên thị trường. Làm giàu trên đất khó không còn là mơ ước, hướng mở triển vọng mà đã thực sự hiện hữu trên đồi rừng Lai Đồng và đang phát triển lên tầm cao mới với những ý tưởng, giải pháp hữu hiệu giúp nâng cao chất lượng, giá trị hàng hóa, hiệu quả kinh tế từ món quà vô giá của thiên nhiên...
Sáng ngày 22/11, tại Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Phú Thọ, Hội đồng Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức nghiệm thu Dự án: “Xây dựng mô hình nuôi lợn nái sinh sản giống bản địa và nuôi thương phẩm con lai giữa giống lợn bản địa huyện Yên Lập với giống lợn Duroc theo hướng an toàn sinh học”. Dự án do Hợp tác xã nông nghiệp hữu cơ Sơn Thủy chủ trì thực hiện. Thạc sỹ Đỗ Xuân Hoàn - Phó Giám đốc Sở làm Chủ tịch Hội đồng.
Việc phục tráng để mở rộng sản xuất các giống lúa chất lượng không những đáp ứng nhu cầu gạo chất lượng cao mà còn góp phần đảm bảo an ninh lương thực cho các dân tộc miền núi phía Bắc Việt Nam. TS. Vũ Linh Chi và các cộng sự tại Trung tâm Tài nguyên Thực vật đã thực hiện Đề tài "Khai thác phát triển các nguồn gen lúa nếp địa phương chất lượng cao phục vụ sản xuất hàng hóa tại miền núi phía Bắc".
Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) vừa ban hành Quyết định số 2779/QĐ-BKHCN ngày 29/10/2024 phê duyệt Chương trình KH&CN cấp quốc gia giai đoạn đến năm 2030 “Nghiên cứu KH&CN phục vụ mục tiêu đạt mức phát thải ròng bằng 0 tại Việt Nam” (Chương trình), mã số KC.16/24-30.
Huyện Tân Sơn có gần 4.000ha chè, trong đó có tới 90% thuộc diện đang cho thu hoạch. Chè là một trong những loại cây trồng được xác định là cây chủ lực trong phát triển kinh tế của huyện. Những năm qua, cùng với giữ ổn định diện tích chè, Tân Sơn luôn chú trọng nâng cao chất lượng, sản xuất chè an toàn.
Liên kết trang
0
3
0