Uy ban nhân dân tỉnh phú thọ
Sở khoa học và công nghệ
 SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH PHÚ THỌ
ủy ban nhân dân tỉnh phú thọ
sở khoa học và công nghệ
Thứ Sáu, 21/12/2018
Từ viết tắt
Xem với cỡ chữ
Đọc bài viết
Tương phản

Tìm giải pháp xây dựng thương hiệu chè xanh Phú Thọ


img1422-1544583275
Người dân xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn ứng dụng cơ giới hóa trong khâu thu hoạch chè, góp phần đảm bảo chất lượng, xây dựng thương hiệu chè xanh Phú Thọ.

 - Phú Thọ được coi là “cái nôi” của ngành chè Việt Nam với nhiều điều kiện thuận lợi và phát triển cây chè luôn được xác định là một trong những chương trình nông nghiệp trọng điểm của tỉnh. Mặc dù luôn nằm trong tốp đầu của cả nước về diện tích, năng suất, sản lượng hàng năm, song trên thực tế sản phẩm chè xanh Phú Thọ vẫn chưa thực sự “đứng vững” trên thị trường. Do đó, để khẳng định vị thế sản phẩm chè Phú Thọ rất cần lời giải cho “bài toán” xây dựng thương hiệu chè xanh Phú Thọ.

Theo thống kê của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), tổng diện tích chè toàn tỉnh hiện đạt 16,2 nghìn ha, trong đó diện tích đang cho sản phẩm là 15,6 nghìn ha; năng suất chè búp tươi bình quân trên diện tích cho sản phẩm ước đạt 114 tạ/ha; sản lượng chè búp tươi đạt 178,5 nghìn tấn/năm. 

Những năm qua, phát triển chè của tỉnh nói chung đã đạt nhiều kết quả đáng khích lệ, đặc biệt là trong thực hiện quy hoạch vùng nguyên liệu sản xuất. Hiện, trên địa bàn tỉnh đã phân vùng nguyên liệu chế biến chè đen với tổng diện tích 12,6 nghìn ha, tập trung tại các huyện trọng điểm phát triển chè như: Đoan Hùng, Hạ Hòa, Tân Sơn, Thanh Sơn, Thanh Ba, Phù Ninh, Yên Lập… và 158 vùng nguyên liệu chế biến chè xanh với tổng diện tích trên 5 nghìn ha, quy mô tối thiểu đạt 5ha/vùng và 29 vùng sản xuất hàng hoá với quy mô trên 20ha/vùng với tổng diện tích trên 3,8 nghìn ha. 

Việc mở rộng diện tích sản xuất chè an toàn nhằm tạo nguồn nguyên liệu chất lượng cao phục vụ chế biến được quan tâm. Toàn tỉnh hiện có trên 3 nghìn ha chè an toàn đạt tiêu chuẩn chất lượng cao như: Rainforest Alliance, VietGAP, UTZ… Tỷ lệ các giống chè mới như: LPD1, LPD2, PH11, Kim Tuyên, Phúc Văn Tiên, Bát Tiên… chiếm 73% diện tích chè trồng. Theo đánh giá của các ngành chức năng, cơ cấu giống chè của tỉnh hiện nay khá đa dạng, phù hợp cho cả chế biến chè đen và chè xanh.

Bên cạnh chú trọng quy hoạch phân vùng nguyên liệu phục vụ chế biến, việc thực hiện liên kết trong sản xuất giữa người trồng chè với các đơn vị, doanh nghiệp cũng được đẩy mạnh. Ngoài các doanh nghiệp có diện tích sản xuất chè như: Công ty chè Phú Đa, Công ty chè Phú Bền, Viện KH-KT NLN miền núi phía Bắc đã có một số doanh nghiệp thực hiện ký kết hợp đồng bao tiêu chè búp tươi với người dân như các Công ty chè Á Châu, Hoàng Trung, Hợp Tín, Hương Giang, Trung Hiếu, Hoài Trung… với sản lượng khai thác khoảng 12-15 nghìn tấn/năm. Tỉnh cũng đang từng bước xây dựng thương hiệu chè xanh, một số sản phẩm mang thương hiệu chè xanh Phú Thọ có uy tín bước đầu được thị trường đón nhận như: Chè Bảo Long; Phú Hộ Trà; Chè xanh Chùa Tà; Chè Yên Kỳ…

Tuy nhiên, trên thực tế, việc xây dựng thương hiệu quốc gia cho chè xanh Phú Thọ đang gặp nhiều khó khăn, trong đó, phải kể đến những hạn chế trong lĩnh vực công nghiệp chế biến. Theo thống kê của Sở NN&PTNT, toàn tỉnh có trên 50 cơ sở, doanh nghiệp chế biến chè, công suất chế biến bình quân đạt trên 1 tấn chè búp tươi/cơ sở/ngày trở lên; 1.370 cơ sở chế biến chè thủ công, nhỏ lẻ đang hoạt động, với tổng sản lượng chè chế biến đạt trên 50 nghìn tấn/năm. Tuy nhiên, cơ cấu sản phẩm chủ yếu vẫn là chè đen, chiếm khoảng 70% tổng sản lượng sản xuất, 30% sản lượng còn lại là chè xanh và sản phẩm chè khác như: Chè ướp hương, chè thảo mộc… 

dsc7180-1544583288
Đẩy nhanh tiến độ xây dựng nhãn hiệu tập thể đối với các làng nghề, HTX sản xuất chè, góp phần nâng cao uy tín, khẳng định thương hiệu chè xanh Phú Thọ.
- Sản phẩm chè xanh của HTX chè Văn Miếu (xã Văn Miếu, huyện Thanh Sơn) đang đề nghị công nhận nhãn hiệu tập thể.

Khảo sát thực tế khác từ Liên hiệp các hội KH-KT tỉnh tại một số vùng sản xuất lớn và các cơ sở, doanh nghiệp trên địa bàn cho thấy, sản phẩm chè Phú Thọ được sản xuất dưới dạng thô, chưa được chế biến sâu thành sản phẩm tinh, có tới 80% tiêu thụ dưới dạng bán thành phẩm, hầu hết được xuất bán làm nguyên liệu phục vụ các công đoạn sản xuất khác nhằm tạo ra sản phẩm cao cấp hơn. Do vậy, giá chè bán thành phẩm của Phú Thọ thấp hơn từ 3-5 lần so với các sản phẩm chè xanh đã qua chế biến, phối trộn của các thương hiệu khác. Mặt khác, chế biến chè xanh yêu cầu về nguồn nguyên liệu và công nghệ chế biến cao hơn, do vậy, cần thời gian và chi phí đầu tư lớn hơn, so với sản xuất thông thường. Đây cũng là lý do khiến các đơn vị sản xuất, doanh nghiệp chưa mặn mà đối với phát triển chế biến chè xanh.

Bên cạnh đó, ý thức sản xuất trong bộ phận các hộ sản xuất nhỏ còn mang nặng tâm lý, tập quán nhỏ lẻ, manh mún, thường có xu hướng sản xuất thiên về năng suất, sản lượng, chạy theo lợi nhuận, chưa đề cao chất lượng cũng như chưa chú trọng xây dựng thương hiệu, dẫn đến uy tín chưa cao. Tuy là tỉnh có tổng diện tích chè lớn, song diện tích chè trong dân chiếm tỷ lệ cao tới 75,4%, chủ yếu quy mô sản xuất còn manh mún (bình quân 0,3-0,4ha/ hộ) đã gây nhiều khó khăn trong việc hình thành vùng chè nguyên liệu với quy mô lớn phục vụ sản xuất hàng hoá tập trung; đồng thời trở thành rào cản trong việc áp dụng tiến bộ KH-KT, cơ giới hoá sản xuất. 

Ngoài ra, những yếu tố khác như: Đầu tư ứng dụng KH-KT trong sản xuất còn hạn chế; chính sách hỗ trợ thiếu sự ràng buộc; sự liên kết giữa đầu tư, quy hoạch vùng nguyên liệu giữa doanh nghiệp chế biến và nông dân chưa chặt chẽ; các cơ sở chế biến phát triển nhanh nhưng thiếu tính bền vững; tiến độ thực hiện xây dựng nhãn hiệu tập thể đối với sản phẩm chè xanh ở các địa phương còn chậm… là những nguyên nhân gây khó khăn trong xây dựng thương hiệu chè xanh Phú Thọ. 

Để tìm lời giải cho “bài toán” xây dựng thương hiệu chè xanh Phú Thọ, tỉnh cần có những giải pháp đồng bộ từ quy hoạch vùng nguyên liệu; sắp xếp, đổi mới phương thức, tổ chức sản xuất; ứng dụng tiến bộ KH-KT nâng cao năng lực chế biến của các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp; tăng cường thông tin, tuyên truyền; đẩy mạnh quảng bá sản phẩm, xúc tiến thương mại, phát triển thị trường… Trong đó, chú trọng nghiên cứu kỹ lưỡng về thị trường, phát triển hệ thống kênh phân phối, quan tâm đến công tác quản lý thương hiệu để đảm bảo uy tín, hình ảnh thương hiệu. Cần nghiên cứu, đưa ra các chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất phù hợp, vừa làm động lực khuyến khích vừa có cơ chế ràng buộc rõ ràng, tránh tình trạng người dân, nhà sản xuất làm cho có, chạy hỗ trợ mà không thực sự chú trọng đến phát triển sản xuất lâu dài… từ đó nâng cao vị thế, sức cạnh tranh của sản phẩm chè xanh Phú Thọ trên 
thị trường.

Theo đại diện Liên hiệp các hội KH-KT tỉnh, sắp tới Hội thảo về giải pháp phát triển thương hiệu chè xanh Phú Thọ sẽ được tổ chức, đây sẽ là cơ hội các cấp, ngành, cơ quan chuyên môn cũng như các doanh nghiệp, địa phương cùng bàn bạc, tìm ra các giải pháp nhằm tháo “nút thắt” cho xây dựng thương hiệu chè xanh của tỉnh.

Lượt xem: 416



BÀI VIẾT KHÁC
Đo lường và thúc đẩy kết quả đổi mới sáng tạo cấp địa phương
Đo lường và thúc đẩy kết quả đổi mới sáng tạo cấp địa phương

Trong khuôn khổ Kỳ họp lần thứ 65 Đại hội đồng các quốc gia thành viên của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), ngày 12/7/2024, tại Geneva, Thụy Sỹ đã diễn ra Hội thảo bên lề “Đo lường và thúc đẩy kết quả Đổi mới sáng tạo cấp địa phương: Vai trò của các Chỉ số Đổi mới sáng tạo cấp địa phương” nhằm thảo luận về công cụ và kinh nghiệm triển khai Chỉ số Đổi mới sáng tạo cấp địa phương (Provincial Innovation Index - PII).

Ngày 16/07/2024
Để doanh nghiệp khoa học và công nghệ vươn lên thành đầu tàu dẫn dắt
Để doanh nghiệp khoa học và công nghệ vươn lên thành đầu tàu dẫn dắt

Tại buổi họp bàn về “Chính sách phát triển Doanh nghiệp khoa học và công nghệ (DN KH&CN) Việt Nam” với Hiệp hội DN KH&CN (VTS) ngày 6/7/2024 tại Hà Nội, Thứ trưởng Bộ KH&CN Hoàng Minh yêu cầu các đại biểu tập trung thảo luận, đề xuất các giải pháp làm thế nào để các DN KH&CN phát huy vai trò đầu tàu trong việc ứng dụng làm chủ công nghệ, nâng cao năng suất lao động, cạnh tranh, làm hình mẫu cho các loại hình DN khác.

Ngày 08/07/2024
70% doanh nghiệp sẽ tăng ngân sách cho đổi mới sáng tạo
70% doanh nghiệp sẽ tăng ngân sách cho đổi mới sáng tạo

86% DN nhận định đổi mới sáng tạo là “chìa khoá” quan trọng đối với tăng trưởng trong thời gian tới và 70% DN dự kiến tăng ngân sách cho đổi mới sáng tạo.

Ngày 03/07/2024
Tập huấn về Bộ chỉ số đổi mới sáng tạo cấp địa phương năm 2024
Tập huấn về Bộ chỉ số đổi mới sáng tạo cấp địa phương năm 2024

Hội nghị tập huấn về thu thập dữ liệu Bộ chỉ số đổi mới sáng tạo cấp địa phương năm 2024 đã được Sở Khoa học & Công nghệ tổ chức sáng nay, 2/7. Tham dự Hội nghị, có đại diện của Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN, Bộ Khoa học & Công nghệ; về phía Sở KH&CN có đồng chí Chu Thị Bích Thủy - Phó Giám đốc Sở; về phía trường ĐH Hùng Vương có đồng chí Trần Đình Chiến - Phó Hiệu trưởng Nhà trường, cùng đại diện các sở, cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.

Ngày 02/07/2024
Ứng dụng thông minh tích hợp nhiều dịch vụ dựa trên trí tuệ nhân tạo
Ứng dụng thông minh tích hợp nhiều dịch vụ dựa trên trí tuệ nhân tạo

Trong thời gian tới, sự bùng nổ của các ứng dụng thông minh sẽ trở thành xu hướng chủ đạo, thay đổi cách chúng ta tương tác và làm việc hàng ngày. Theo định nghĩa của Gartner, một ứng dụng thông minh (Intelligent application) không chỉ đơn thuần thực hiện các nhiệm vụ cố định mà còn có khả năng thích ứng, tự điều chỉnh và phản ứng linh hoạt dựa trên sự học hỏi từ môi trường và người dùng.

Ngày 21/06/2024
Bộ KH&CN hướng dẫn nguyên tắc nghiên cứu, phát triển trí tuệ nhân tạo có trách nhiệm
Bộ KH&CN hướng dẫn nguyên tắc nghiên cứu, phát triển trí tuệ nhân tạo có trách nhiệm

Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) mới ban hành Quyết định số 1290/QĐ-BKHCN về việc hướng dẫn một số nguyên tắc về nghiên cứu, phát triển các hệ thống trí tuệ nhân tạo (TTNT) có trách nhiệm nhằm hướng đến một xã hội lấy con người làm trung tâm, mọi người được hưởng những lợi ích từ các hệ thống TTNT, bảo đảm sự cân bằng hợp lý giữa lợi ích và rủi ro của các hệ thống TTNT...

Ngày 19/06/2024
Lịch tiếp công dân Chung tay cải cách thủ tục hành chính Thông tin KHCN Điều tra nghiên cứu khoa học 2024 Kết quả thực hiện nhiệm vụ KHCN Nhiệm vụ KHCN đang tiến hành

Liên kết trang

PAKN đã trả lời

0

PAKN đang xử lý

0

PAKN từ chối xử lý

0