Trong những năm gần đây, sản xuất chè Việt Nam đã phát triển theo hướng tăng dần cả về diện tích và sản lượng. Sau hơn 15 năm (1997 - 2012) diện tích, năng suất và sản lượng chè tăng từ 1,5 đến 2,5 lần. Diện tích chè già với năng suất thấp, chất lượng kém đang được thay thế mạnh mẽ bằng các giống chè mới với năng suất cao và chất lượng tốt như LDP1, LDP2, Kim Tuyên… Hiện nay cơ cấu các giống chè mới, được chọn lọc đã chiếm 52 % tổng diện tích chè cả nước. Năm 2012, diện tích chè cả nước có khoảng 130.000 ha, năng suất khô đạt 1,4 tấn/ha, sản lượng chè khô sản xuất ra đạt khoảng 200.000 tấn. Trong đó, xuất khẩu 160.000 tấn, với tỷ trọng chè đen là 57,4 %, chè xanh và chè khác là 42 %. Như vậy, so với 5 năm trước đây (2007) tỷ trọng loại chè xuất khẩu của Việt Nam có sự thay đổi theo hướng tăng xuất khẩu chè xanh, giảm xuất khẩu chè đen (năm 2007 tỷ trọng xuất khẩu chè đen chiếm 70 %). Cho đến nay, chè của Việt Nam đã xuất khẩu sang hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ, Việt Nam là quốc gia có sản lượng và xuất khẩu chè lớn thứ 5 trên thế giới, song giá chè xuất khẩu của Việt Nam chưa cao, bình quân khoảng 1,5 USD/1 kg, chỉ bằng 70% giá bán bình quân của sản phẩm chè thế giới.
![]() |
Giống chè PH8 trên diện tích sản xuất thực nghiệm tại Viện KHKT nông - lâm nghiệp miền núi phía Bắc. |
Một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên là cơ cấu giống chè của nước ta còn chưa phù hợp. Đến năm 1980 tỷ lệ giống chè trung du và chè shan trồng bằng hạt chiếm tới 90 % diện tích chè cả nước. Giai đoạn từ những năm 1980 chúng ta mới chỉ áp dụng phương pháp chọn lọc cá thể từ quần thể chè hạt hiện có. Kết quả đã chọn ra giống chè PH1 và cùng với tiến bộ về kỹ thuật giâm cành, giống chè PH1 đã phát triển nhanh và chiếm khoảng 10 % diện tích. Tuy nhiên, phương pháp chọn lọc cá thể không có nhiều cơ hội lựa chọn vì số lượng vật liệu khởi đầu còn hạn chế. Từ năm 1980, trạm nghiên cứu chè Phú Hộ đã bắt đầu áp dụng phương pháp lai hữu tính chọn tạo giống chè mới đã chọn ra giống chè LDP1, LDP2. Đây là 2 giống chè sinh trưởng khỏe, năng suất cao, khả năng chống chịu tốt; tuy nhiên nó chỉ phù hợp cho chế biến chè đen. Vì vậy, năm 1998, Viện Nghiên cứu chè (nay là Viện KHKT nông - lâm nghiệp miền núi phía Bắc) đã áp dụng phương pháp lai hữu tính giữa các giống chè nhập nội có chất lượng cao với các giống chè địa phương sinh trưởng khỏe, có khả năng thích ứng tốt với điều kiện khí hậu Việt Nam, nhằm tạo ra giống chè mới có năng suất cao, chất lượng tốt, có khả năng chế biến chè xanh, chè đen chất lượng cao, đa dạng hóa sản phẩm chè, nâng cao hiệu quả của sản xuất chè ở Việt Nam.
Từ hai giống chè Kim Tuyên (khi nhập vào Việt Nam năm 1994, còn có tên gọi là Kim Huyên, A17 hoặc dòng 27 mang đặc điểm: Dạng thân bụi, tán hơi đứng, mật độ cành dày, lá hình bầu dục xanh bóng, thế là ngang, răng cưa to, đều, chóp lá tù) và giống chè TRI777 (thuộc biến chủng chè Shan, cây sinh trưởng khá, búp to, mật độ búp thấp, góc độ phân cành hẹp, tán tương đối rộng); bằng phương pháp lai hữu tính, nhóm các nhà khoa học ở Viện KHKT Nông - lâm nghiệp miền núi phía Bắc đã nghiên cứu để chọn tạo được hai giống chè mới PH8, PH9 có khả năng đáp ứng yêu cầu thực tiễn của ngành chè đang đặt ra.
Kể lại quá trình lai tạo, Tiến sĩ Nguyễn Thị Minh Phương, thành viên nhóm nghiên cứu cho biết: Năm 1998, Viện đã tiến hành lai hữu tính giữa giống chè TRI777 với giống chè Kim Tuyên. Tháng 10 năm 1999 thu quả từ các cặp lai, gieo các cặp lai theo dõi và chọn lọc các cá thể lai, dựa vào các số liệu quan sát, theo dõi các chỉ tiêu hình thái, sinh trưởng, năng suất, chất lượng, nhóm đã chọn được cây lai số 8 và cây lai số 9 đáp ứng được các yêu cầu đặt ra, nhân giống bằng kỹ thuật giâm cành tạo thành dòng số 8 và dòng số 9. Thí nghiệm khảo nghiệm so sánh giống thấy một số ưu thế về đặc điểm hình thái sinh học của 2 giống PH8 và PH9 đối với việc nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm chè.
Từ kết quả lai tạo, Viện đã tiến hành trồng khảo nghiệm ở một số vùng đại diện cho các vùng sản xuất chè ở miền Bắc như Phú Thọ, Thái Nguyên, Tuyên Quang… Ở các vùng sản xuất thử, giống PH8, PH9 đều sinh trưởng khỏe, khả năng chống chịu điều kiện bất thuận tốt. Tỷ lệ sống cao trên 95 - 99 %, trong đó Thái Nguyên có tỷ lệ sống sau trồng đạt cao tới 99%. Tại Phú Thọ, giống chè PH8, PH9 sinh trưởng khỏe, có tỷ lệ sống cao, ở tuổi 8 vẫn đạt 98 - 100 %. Điều đó chứng tỏ giống chè PH8, PH9 có khả năng chống chịu tốt với điều kiện bất thuận của thời tiết khí hậu ở Phú Thọ. Giống PH8, PH9 cho năng suất sớm. Tuổi 4 đã đạt 7 - 8 tấn/ha, tuổi 8 đạt 15,8 - 17,24 tấn/ha. Giống PH8 tăng 138,23 % so với Kim Tuyên và 165,23 % so với giống TRI777; giống PH9 tăng 118,23 % so với giống Kim Tuyên và 143,07 % so với TRI777. Đặc biệt, trong những năm đầu, giống PH8, PH9 có năng suất tương đương với giống LDP1 nhưng đến tuổi 8 năng suất đã vượt so với LDP1 từ 26,9 - 38,37 %.
Từ các kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy 2 giống chè mới PH8, PH9 tại các vùng đều sinh trưởng khỏe, có tiềm năng cho năng suất cao, chất lượng tốt và khả năng chống chịu sâu bệnh tốt. Hai giống PH8, PH9 đều có khả năng thích ứng với các vùng khảo nghiệm. Do đặc điểm của 2 giống chè PH8, PH9 sinh trưởng khỏe, sớm cho năng suất cao, chất lượng tốt, nên ngay sau khi được công nhận giống sản xuất thử, 2 giống chè mới này đã được mở rộng diện tích tương đối nhanh. Đến nay tại 3 tỉnh điều tra: Phú Thọ, Thái Nguyên và Tuyên Quang, diện tích 2 giống chè đã đạt 200 ha, trong đó giống chè PH8: 125 ha và PH9: 75 ha. Ngoài 3 tỉnh chủ lực giống chè PH8, PH9 còn đang được phát triển ở các tỉnh khác như: Nghệ An (11 ha), Lai Châu (trên 30 ha), Yên Bái (10 ha), Hà Nội (10 ha), Sơn La, Lào Cai, Hòa Bình, Quảng Ninh… Đến nay tổng diện tích trồng 2 giống chè PH8, PH9 trên cả nước đã đạt trên 300 ha.
Tham gia Hội thi sáng tạo kỹ thuật tỉnh Phú Thọ năm 2012- 2013, kết quả nghiên cứu chọn tạo giống chè PH8, PH9 của nhóm tác giả gồm 5 tiến sĩ khoa học của Viện KHKT Nông – lâm nghiệp miền núi phía Bắc: Nguyễn Thị Minh Phương, Nguyễn Văn Toàn, Đỗ Văn Ngọc, Nguyễn Văn La, Đặng Văn Thư đưa được Hội đồng giám khảo đánh giá cao ở cả 3 phương diện: Tính mới và sáng tạo; khả năng áp dụng, triển khai; hiệu quả kỹ thuật công nghệ. Nhóm nghiên cứu đã sử dụng phương pháp lai hữu tính, chọn đúng cặp bố mẹ kết hợp phương pháp chọn lọc cá thể để tạo giống mới; đồng thời sử dụng công nghệ nhân giống vô tính bằng phương pháp giâm cành, phương pháp tiến bộ đã được nghiên cứu và sử dụng tại Việt Nam nên đảm bảo tính thuần nhất của giống chè mới. Hai giống chè mới hiện đã có trên 300 ha và có mặt tại hầu hết các tỉnh trồng chè vùng trung du miền núi phía Bắc; triển vọng tiếp tục được phát triển ở các tỉnh trồng chè trong cả nước cung cấp nguyên liệu cho các vùng chè chế biến chè xanh và chè đen chất lượng cao. Kết quả chọn tạo thành công 2 giống chè PH8, PH9 đã đóng góp vào bộ giống chè của nước ta 2 giống chè mới, góp phần tăng tỷ trọng các giống chè mới của Việt Nam lên trên 52 % tổng diện tích chè cả nước. Giống mới đã góp phần đa dạng hóa sản phẩm, tăng hiệu quả kinh tế sản xuất chè Việt Nam. Hiện nay năng suất bình quân chè Việt Nam đã đạt 7,3 tấn/ha, tăng gấp 2,1 lần so với năm 2000. Việc nâng cao chất lượng chè và tạo việc làm cho hàng triệu lao động vùng trung du và miền núi; ngoài ra cây chè còn góp phần bảo vệ đất, chống xói mòn, rửa trôi, bảo vệ môi trường.
Với những thành công trên, kết quả nghiên cứu cho ra đời hai giống chè mới: PH8, PH9 của nhóm các nhà khoa học ở Viện KHKT nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc đã mở ra triển vọng mới cho ngành chè Việt Nam nói chung, Phú Thọ nói riêng; đồng thời xứng đáng với vị trí quán quân tại Hội thi sáng tạo kỹ thuật của tỉnh Phú Thọ năm 2012- 2013.
Việc sắp xếp và vận hành chính quyền địa phương 2 cấp cơ bản đang đi vào ổn định, đúng hướng, trúng, đúng với nguyện vọng của nhân dân, giải quyết khó khăn, vướng mắc đã tồn tại nhiều năm qua.
baophutho.vnSản phẩm gạo nếp Gà Gáy Mỹ Lung nay thuộc xã Sơn Lương là sản phẩm đặc trưng của người Mường, được người tiêu dùng đánh giá cao về chất lượng. Trong 5 năm trở lại đây, diện tích, sản lượng được tăng nhanh, thị trường ngày một mở rộng nên nguồn cung không đủ. Trước nhu cầu ngày càng cao về sản phẩm nếp Gà Gáy, địa phương đang tiến hành phục tráng giống lúa để mở rộng diện tích gieo cấy đáp ứng nhu cầu hiện nay.
Bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945 đánh dấu sự xuất hiện chính thức của Việt Nam trên bản đồ pháp lý quốc tế với tư cách là một chủ thể có chủ quyền, bình đẳng và hợp pháp. Tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” trở thành ngọn đuốc soi đường cho dân tộc Việt Nam từ kháng chiến giữ nước đến kiến tạo hòa bình, phát triển và hội nhập.
baophutho.vnNằm ở vùng trung du miền núi phía Bắc của tỉnh, xã Chí Đám từ lâu được biết đến là vùng canh tác bưởi đặc sản nổi tiếng khắp vùng. Khai thác tốt tiềm năng thế mạnh về đất đai màu mỡ, khí hậu ôn hoà, vị trí địa lý thuận lợi và nguồn nhân lực dồi dào, địa phương đang thúc đẩy sản xuất theo hướng hàng hóa tập trung, bền vững.
Đã 80 năm trôi qua kể từ Cách mạng Tháng Tám, nhưng giá trị lịch sử của sự kiện này và tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập – tự do” được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định cách đây gần 60 năm vẫn tiếp tục soi đường cho đất nước trên hành trình Đổi mới, hội nhập và khát vọng vươn mình của dân tộc Việt Nam trong kỷ nguyên mới.
Trong suốt chiều dài lịch sử, dân tộc Việt Nam luôn kiên cường vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách để giành lấy quyền độc lập, tự do, hướng tới xây dựng một xã hội văn minh, giàu đẹp, công bằng, dân chủ, văn minh. Sau gần 40 năm Đổi mới, khát vọng phát triển hùng cường, thịnh vượng chưa bao giờ cháy bỏng và hiện hữu rõ nét như hiện nay.
Liên kết trang
0
3
0