Nông nghiệp hữu cơ đang là xu hướng phát triển mạnh hiện nay trước nhu cầu sử dụng sản phẩm sạch, an toàn cho sức khỏe của người tiêu dùng cũng như đảm bảo sự bền vững cho môi trường, đồng thời đây cũng là một trong những giải pháp giúp nông nghiệp gia tăng sức cạnh tranh trên thị trường, nâng cao giá trị sản phẩm. Trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, những năm gần đây đã xuất hiện một số mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ, bước đầu mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Mô hình trồng dưa lưới trong nhà màng theo tiêu chuẩn hữu cơ ở HTX Nông nghiệp và dịch vụ Ngân Hà, xã Thanh Minh, thị xã Phú Thọ.
Khẳng định hiệu quả nông nghiệp hữu cơ
HTX Nông nghiệp và dịch vụ Ngân Hà xã Thanh Minh, thị xã Phú Thọ là một trong những đơn vị đi đầu trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ trên địa bàn tỉnh với tổng diện tích canh tác hữu cơ khoảng 5,2ha, trung bình mỗi năm doanh thu của nông sản hữu cơ đạt trên 1,2 tỷ đồng. Ông Lê Trung Thành- Giám đốc HTX chia sẻ: "Sản xuất nông nghiệp hữu cơ đòi hỏi quy trình kỹ thuật khắt khe và chi phí đầu tư ban đầu lớn so với sản xuất nông nghiệp truyền thống. Vì vậy, các hộ tham gia mô hình đều được tập huấn về quy trình sản xuất; sử dụng các loại phân bón, thuốc bảo vệ thực vật (BVTV), nguồn nước, đặc biệt là chi phí xây dựng nhà màng, nhà lưới phòng sâu bọ... Sản phẩm nông nghiệp hữu cơ tiêu thụ thuận lợi, được giá hơn so với nông sản thông thường. Bình quân, trồng rau, củ, quả hữu cơ chúng tôi thu về khoảng 200-215 triệu đồng/ha/năm".
Thực hiện Nghị quyết số 22/2021/NQ-HĐND, ngày 09/12/2021 của HĐND tỉnh về chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, ngành Nông nghiệp đã triển khai thực hiện phát triển một số mô hình nông nghiệp hữu cơ trên địa bàn theo các phương thức canh tác hữu cơ từ truyền thống đến áp dụng quy trình canh tác hữu cơ tiên tiến như: Hình thức sản xuất do người dân tự đầu tư sản xuất và tiêu thụ tại các huyện: Tân Sơn, Thanh Sơn, Yên Lập... chủ yếu là nông nghiệp quảng canh trồng cây bản địa, cây ăn quả, rau phục vụ cho nhu cầu sử dụng của các hộ gia đình; trồng rau sắng, quýt tại huyện Tân Sơn; trồng bưởi đặc sản Đoan Hùng sử dụng phân bón hữu cơ tự chế từ đậu tương, xương cá, phụ phẩm nông nghiệp; mô hình liên kết sản xuất lúa nếp Gà gáy theo hướng hữu cơ tại xã Mỹ Lung, huyện Yên Lập; mô hình trồng quế hữu cơ gắn với liên kết tiêu thụ sản phẩm trên địa bàn tỉnh Phú Thọ...
Ngoài xây dựng các mô hình, một số cơ sở sản xuất hữu cơ đã được cấp giấy chứng nhận sản phẩm phù hợp tiêu chuẩn hữu cơ TCVN 11041-2:2017 như: Trang trại sản xuất cây ăn quả hữu cơ Toàn Việt tại xã Tiên Kiên; mô hình liên kết sản xuất tiêu thụ rau (các loại rau ăn lá) hữu cơ tại HTX Thực phẩm xanh, xã Vĩnh Lại (huyện Lâm Thao); mô hình liên kết sản xuất tiêu thụ rau (dưa và các loại rau, củ) hữu cơ tại HTX Nông nghiệp và dịch vụ Ngân Hà, xã Thanh Minh; mô hình canh tác chè hữu cơ tại Công ty TNHH Thế hệ mới chè CoZy, xã Phú Hộ (thị xã Phú Thọ)...
Những mô hình trên đã đạt được những kết quả tốt, thu nhập của người sản xuất được nâng lên; việc sử dụng chất hóa học như phân bón, thuốc BVTV trong sản xuất giảm đến mức tối đa; môi trường nông thôn, đồng ruộng được bảo vệ...
Trồng rau an toàn theo hướng hữu cơ của HTX Thực phẩm xanh xã Vĩnh Lại, huyện Lâm Thao.
Để nông nghiệp hữu cơ phát triển bền vững
Theo số liệu thống kê của Sở NN&PTNT, tổng diện tích đất nông nghiệp hiện nay của tỉnh có khoảng 194.200ha, chiếm 83,2% tổng diện tích đất tự nhiên. Phú Thọ là tỉnh có điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu thuận lợi cho phát triển sản xuất nông nghiệp với đa dạng các chủng loại cây trồng, vật nuôi, có vị trí địa lý, hạ tầng giao thông đồng bộ, thuận lợi, tạo tiền đề kết nối với các địa phương khác trong cả nước và với quốc tế, mở ra triển vọng hình thành trung tâm logistics có chức năng thu hút, lan tỏa hàng hóa, dịch vụ cho các tỉnh lân cận, trong đó có các hàng hóa nông, lâm sản. Tuy nhiên, tổng diện tích sản xuất được cấp chứng nhận hữu cơ mới chỉ đạt 24ha/108.000ha tổng diện tích trồng trọt hàng năm.
Trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ hiện nay khó khăn lớn nhất đối với người sản xuất là chi phí đầu tư ban đầu và hiểu biết thực sự về nông nghiệp hữu cơ. Phần lớn người sản xuất và tiêu dùng vẫn cho rằng nông sản hữu cơ là sản xuất theo hướng tự nhiên, không dùng đến chất hóa học. Thực tế theo các tiêu chuẩn, quy trình của sản xuất nông nghiệp hữu cơ rất phức tạp, từ việc sử dụng phân bón hữu cơ, vi sinh được làm từ nguyên liệu sinh học, phụ phẩm nông nghiệp đến việc xây dựng hệ thống nhà màng, nhà lưới, bao bọc quả từ lúc còn non để hạn chế sâu bệnh gây hại, phân tích chất lượng đất để bổ sung vi sinh, sử dụng nguồn nước sạch trong tưới cây... đòi hỏi nguồn kinh phí khá lớn...
Do đó, ngành Nông nghiệp đặt ra mục tiêu đến năm 2025, diện tích đất trồng trọt theo hướng hữu cơ trên toàn tỉnh sẽ đạt khoảng 500ha với các cây trồng chủ lực: Bưởi, rau, chè... Tỷ lệ sản phẩm chăn nuôi theo hướng hữu cơ khoảng 40.000 động vật với các sản phẩm: Lợn thịt, bò thịt, gà thịt, mật ong... Diện tích nuôi trồng thủy sản theo hướng hữu cơ 110ha. Đối với sản phẩm dược liệu và lâm sản ngoài gỗ từ tự nhiên, tỷ lệ sản lượng hữu cơ trên tổng sản lượng đạt trên 90%...
Đồng chí Trần Tú Anh - Phó Giám đốc Sở NN&PTNT cho biết: Thời gian tới, Sở NN&PTNT sẽ phối hợp với các địa phương để xây dựng quy hoạch, kế hoạch, định hướng vùng, đối tượng sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Đồng thời nghiên cứu, tham mưu cho UBND tỉnh để xây dựng các chính sách khuyến khích, hỗ trợ sản xuất, tạo lập được thị trường trong nước, quốc tế cho sản phẩm nông nghiệp hữu cơ; đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật phục vụ sản xuất. Tiếp tục thực hiện các biện pháp tuyên truyền, phổ biến các tiêu chuẩn, lợi ích, xu hướng phát triển nông nghiệp hữu cơ để người dân biết và có tư duy, lộ trình chuyển đổi nhằm nâng cao giá trị sản phẩm. Giới thiệu rộng rãi để nhân rộng mô hình đã thành công, xây dựng các mô hình mới tại các vùng có khả năng phát triển nông nghiệp hữu cơ giúp người dân nắm bắt được kinh nghiệm thực tế, triển khai có hiệu quả...
Theo baophutho.vn
Việc phục tráng để mở rộng sản xuất các giống lúa chất lượng không những đáp ứng nhu cầu gạo chất lượng cao mà còn góp phần đảm bảo an ninh lương thực cho các dân tộc miền núi phía Bắc Việt Nam. TS. Vũ Linh Chi và các cộng sự tại Trung tâm Tài nguyên Thực vật đã thực hiện Đề tài "Khai thác phát triển các nguồn gen lúa nếp địa phương chất lượng cao phục vụ sản xuất hàng hóa tại miền núi phía Bắc".
Nhằm đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao (CNC) vào sản xuất nông nghiệp mang lại hiệu quả kinh tế cao, TS. Nguyễn Hải Đăng và nhóm nghiên cứu Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam - Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh thực hiện Đề tài: “Giải pháp phát triển mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong thanh niên nông thôn hiện nay”.
Chiều 9/10/2024, tại Trung tâm Hội nghị tỉnh Cao Bằng, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) phối hợp với UBND tỉnh Cao Bằng tổ chức Hội thảo “Thúc đẩy ứng dụng công nghệ và tiến bộ kỹ thuật góp phần phát triển kinh tế - xã hội vùng Trung du và miền núi phía Bắc (TD&MNPB) nhanh và bền vững”.
Trong khuôn khổ sự kiện Kết nối công nghệ và Đổi mới sáng tạo Việt Nam năm 2024, chiều 01/10/2024, tại Hà Nội, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) đã tổ chức Hội nghị về hoạt động ứng dụng, chuyển giao công nghệ và đổi mới sáng tạo (ĐMST) địa phương năm 2024. Hội nghị nhằm thúc đẩy, tăng cường hiệu quả triển khai các hoạt động kết nối chuyển giao công nghệ và ĐMST ở các địa phương, nâng cao đóng góp của KH&CN vào phát triển kinh tế - xã hội.
Nhằm đưa ra được các giải pháp giảm phát thải khí thải nhà kính, tăng trưởng xanh, tiến tới kinh tế cac-bon thấp và khuyến khích sử dụng năng lượng hiệu quả, PGS.TS. Nguyễn Minh Đức và nhóm nghiên cứu Trường Đại học Hàng hải Việt Nam đã thực hiện Đề án: “Xây dựng giải pháp tổ chức, quản lý, khai thác vận tải biển theo hướng tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải phù hợp với quy định của Phụ lục VI, Công ước MARPO” (Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu gây ra).
S. Lại Hồng Thanh cùng nhóm nghiên cứu tại Viện khoa học Trái đất và Môi trường thực hiện Đề tài “Nghiên cứu xây dựng mô hình khai thác một số khoáng sản chủ yếu đảm bảo sử dụng hiệu quả, bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường và thích ứng biến đổi khí hậu”.