Trong những năm gần đây, Trung tâm Nghiên cứu Dược liệu Bắc Trung Bộ đã di thực cây Ba kích từ Phú Thọ vào trồng ở Thanh Hóa bước đầu thành công: cây sinh trưởng phát triển, ra hoa kết trái và cho dược liệu không thấy khác biệt so với nơi nguyên sản. Từ đây, hàng năm, nhóm nghiên cứu đã thu hoạch hạt giống ươm giống từ hạt và cung cấp cho một số cơ sở trong nước trồng ba kích. Tuy số lượng cây giống chưa nhiều nhưng đã được thị trường chấp nhận.
Theo tài liệu kĩ thuật trồng ba kích của Viện Dược liệu năm 2005: "Sản xuất dược liệu ba kích chủ yếu trồng bằng cây giống ươm từ hạt, chỉ thiếu giống, tận dụng giống mới trồng bằng hom thân". Tuy nhiên rất nhiều vấn đề về hạt giống cũng như sản xuất dược liệu ba kích cần được quan tâm nghiên cứu. Đây cũng là cơ sở dẫn đến đề tài "Khai thác và phát triển nguồn gen cây ba kích làm nguyên liệu sản xuất thuốc" được thực hiện bởi nhóm nghiên cứu tại Viện Dược liệu do ThS. Phạm Xuân Luôn dẫn đầu trong thời gian từ tháng 1/2010 đến tháng 12/2014.
Đề tài đã thu được những kết quả sau:
- Đã xây dựng vườn giống gốc ba kích với diện tích 1,5 ha tại xã Lũng Cao, H.Bá Thước, Thanh Hóa, vườn có 15.500 cây ba kích có hàng rào bảo vệ, có hệ thống nước tưới bán tự nhiên, ba kích có đủ cọc leo quấn, tại đây đã thu được 53,2 kg quả giống ba kích phục vụ phát triển.
- Đã xây dựng vườn ươm hạt giống ba kích với diện tích 0,2 ha tại Trung tâm NCDL Bắc Trung Bộ, đất vườn ươm là đất feralít đỏ vàng phù hợp sinh thái phát triển ba kích, vườn có nhà lưới tạo bóng, có hệ thống cấp thoát nước tự động, tại đây đã sản xuất 169450 cây giống ba kích từ hạt thu được từ vườn giống gốc
- Đã triển khai trồng thăm dò 6ha ba kích, trong đó H.Thạch Thành 3ha; H.Như Xuân 2ha và H.Ngọc Lặc 1ha. Cây sinh trưởng phát triển tốt.
- Đã xây dựng quy trình sản xuất hạt giống ba kích có năng suất chất lượng tốt, theo đó khoảng cách trồng 1,2x1,2m, mật độ 6944 cây/ha, phân bón 20 tấn phân chuồng + 400kg NPK (5:8:5) + 0,25kg/ha chất điều hòa sinh trưởng "kích phát tố cho hoa trái Thiên Nông". Năng suất hạt giống 12,87-25,57kg (hạt tươi)/ha khi cây 4-6 năm tuổi. Tỷ lệ hạt chắc 72,7-75,45%; P1000hạt: 50,35- 53,17g, tỷ lệ nảy mầm của hạt 91,85-92,23%.
- Đã xây dựng tiêu chuẩn hạt giống ba kích, theo đó hạt từ cây mẹ có 4 năm tuổi trở lên, hạt làm giống phải là hạt tươi màu trắng ngà, tỷ lệ P hạt chắc/quả 30% trở lên, P1000 hạt 40g trở lên, tỷ lệ hạt chắc 70% trở lên, tỷ lệ nảy mầm của hạt 90% trở lên.
Đề tài được xem là cơ sở khoa học để phát triển sản xuất dược liệu ba kích theo hướng bền vững, đem lại nguồn lợi kinh tế cao so với cây trồng truyền thống. Hơn nữa, cây ba kích được trồng chủ yếu với cây rừng. Do đó, nếu trồng nhiều ba kích trên những vùng đất dốc sẽ góp phần chống lại hiện tượng xói mòn tự nhiên của đất đồi.
Việc phục tráng để mở rộng sản xuất các giống lúa chất lượng không những đáp ứng nhu cầu gạo chất lượng cao mà còn góp phần đảm bảo an ninh lương thực cho các dân tộc miền núi phía Bắc Việt Nam. TS. Vũ Linh Chi và các cộng sự tại Trung tâm Tài nguyên Thực vật đã thực hiện Đề tài "Khai thác phát triển các nguồn gen lúa nếp địa phương chất lượng cao phục vụ sản xuất hàng hóa tại miền núi phía Bắc".
Nhằm đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao (CNC) vào sản xuất nông nghiệp mang lại hiệu quả kinh tế cao, TS. Nguyễn Hải Đăng và nhóm nghiên cứu Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam - Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh thực hiện Đề tài: “Giải pháp phát triển mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong thanh niên nông thôn hiện nay”.
Chiều 9/10/2024, tại Trung tâm Hội nghị tỉnh Cao Bằng, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) phối hợp với UBND tỉnh Cao Bằng tổ chức Hội thảo “Thúc đẩy ứng dụng công nghệ và tiến bộ kỹ thuật góp phần phát triển kinh tế - xã hội vùng Trung du và miền núi phía Bắc (TD&MNPB) nhanh và bền vững”.
Trong khuôn khổ sự kiện Kết nối công nghệ và Đổi mới sáng tạo Việt Nam năm 2024, chiều 01/10/2024, tại Hà Nội, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) đã tổ chức Hội nghị về hoạt động ứng dụng, chuyển giao công nghệ và đổi mới sáng tạo (ĐMST) địa phương năm 2024. Hội nghị nhằm thúc đẩy, tăng cường hiệu quả triển khai các hoạt động kết nối chuyển giao công nghệ và ĐMST ở các địa phương, nâng cao đóng góp của KH&CN vào phát triển kinh tế - xã hội.
Nhằm đưa ra được các giải pháp giảm phát thải khí thải nhà kính, tăng trưởng xanh, tiến tới kinh tế cac-bon thấp và khuyến khích sử dụng năng lượng hiệu quả, PGS.TS. Nguyễn Minh Đức và nhóm nghiên cứu Trường Đại học Hàng hải Việt Nam đã thực hiện Đề án: “Xây dựng giải pháp tổ chức, quản lý, khai thác vận tải biển theo hướng tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải phù hợp với quy định của Phụ lục VI, Công ước MARPO” (Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu gây ra).
S. Lại Hồng Thanh cùng nhóm nghiên cứu tại Viện khoa học Trái đất và Môi trường thực hiện Đề tài “Nghiên cứu xây dựng mô hình khai thác một số khoáng sản chủ yếu đảm bảo sử dụng hiệu quả, bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường và thích ứng biến đổi khí hậu”.