Ngày 29/7/2024, tại Hà Nội, Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức Hội thảo "Đánh giá kết quả thực hiện Chương trình bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gen giai đoạn 2015 - 2024 và định hướng triển khai giai đoạn 2025 - 2023". Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt đã tới dự và phát biểu tại Hội thảo.
Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt phát biểu tại Hội thảo
Hội thảo nhằm đánh giá kết quả thực hiện Chương trình bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gen đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 được thủ Tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1671/QĐ-TTg (Chương trình). Đây cũng là cơ hội để các nhà quản lý, nhà khoa học, các chuyên gia cả nước trao đổi và chia sẻ những kinh nghiệm, thành tựu đạt được, những khó khăn, vướng mắc và đề xuất những giải pháp, định hướng mới nhằm nâng cao hiệu quả của Chương trình trong thời gian tới.
Báo cáo kết quả thực hiện Chương trình, ông Nguyễn Phú Hùng, Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ các ngành kinh tế - kỹ thuật, Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết, Chương trình đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ trong công tác bảo tồn và phát triển nguồn gen, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường và quốc phòng - an ninh.
Quang cảnh Hội thảo
Tính đến năm 2023, thông qua các nhiệm vụ bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gen, tổng số nguồn gen được thu thập và lưu giữ được là 80.911, trong đó có 47.772 nguồn gen thực vật nông nghiệp, 5.768 nguồn gen cây lâm nghiệp, 7.039 nguồn gen dược liệu, 891 nguồn gen vật nuôi, 391 nguồn gen thủy sản, 19.050 nguồn gen vi sinh vật. Đặc biệt, trong những năm gần đây số lượng nguồn gen có giá trị làm thuốc đã được phát hiện và thu thập, bảo tồn khoảng trên 7.000 nguồn gen.
Cho đến nay, chúng ta đã đánh giá ban đầu trên 55.800 nguồn gen, đánh giá chi tiết trên 14.100 nguồn gen. Bên cạnh đó, đã khai thác sử dụng hiệu quả, phát triển nhiều nguồn gen quý hiếm có giá trị kinh tế thuộc lĩnh vực lâm nghiệp, dược liệu, vật nuôi, thủy sản, vi sinh vật… Các nhiệm vụ khai thác và phát triển nguồn gen đã được triển khai với trên 300 nguồn gen động, thực vật và trên 700 nguồn gen vi sinh vật, trong đó làm chủ được 178 quy trình công nghệ, hướng dẫn kỹ thuật về nhân giống, chọn tạo giống, canh tác, nuôi và chăm sóc các nguồn gen; triển khai 129 mô hình thử nghiệm ứng dụng kỹ thuật và nhân rộng kết quả trong thực tiễn sản xuất, mang lại hiệu quả về kinh tế, xã hội tại nơi triển khai. Các nhiệm vụ cũng đã xây dựng được hàng trăm tiêu chuẩn cơ sở, bao gồm tiêu chuẩn đàn hạt nhân, cây trội, đàn giống, đàn sản xuất, cây con thương phẩm… Các kết quả nói trên là minh chứng rõ nét cho những nỗ lực của công tác bảo tồn, đánh giá và phát triển nguồn gen trong cả nước thời gian qua.
Phát biểu tại Hội thảo, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt cho biết: Hơn 10 năm qua, công tác bảo tồn, khai thác, sử dụng nguồn gen đã được triển khai đồng bộ từ trung ương đến địa phương. Nhiều nguồn gen quý của Việt Nam đã được phục tráng, bảo tồn, lưu giữ. Đó là cơ sở quan trọng để phục vụ việc khai thác và phát triển, mang lại hiệu quả tích cực, góp phần gìn giữ sự đa dạng sinh học của quốc gia. Bộ trưởng nhấn mạnh, chúng ta cần tập trung hoàn thiện Hệ thống quản lý dữ liệu về nguồn gen quốc gia và Mạng lưới cơ sở quỹ gen quốc gia, đồng thời thúc đẩy các hoạt động đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật cho các trung tâm lưu giữ, bảo tồn nguồn gen. Cùng với đó, cũng cần đẩy mạnh việc khai thác và phát triển một cách hợp lý các nguồn gen đã được phục tráng, bảo tồn nhằm phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, tạo công ăn việc làm cho người dân địa phương. Tập trung chọn lọc các nguồn gen có tính trạng quý, hiếm, có giá trị kinh tế để tiếp tục nghiên cứu tạo ra các giống đặc hữu của Việt Nam, từ đó phát triển thành một số sản phẩm chủ lực phục vụ xuất khẩu và tiêu dùng nội địa.
Tại Hội thảo, các đại biểu đã thảo luận đồng thời đề xuất các giải pháp, chính sách để tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong quá trình triển khai công tác bảo tồn, đánh giá, khai thác và phát triển nguồn gen sinh vật; định hướng KH&CN trong bảo tồn, đánh giá, khai thác và phát triển nguồn gen sinh vật đến năm 2030. Các đại biểu đều thống nhất cho rằng, thời gian tới, công tác bảo tồn và phát triển nguồn gen cần tiếp tục được duy trì và đẩy mạnh hơn nữa. Muốn làm được điều đó, cần có chính sách đồng bộ trong việc chia sẻ nguồn gen giữa các mạng lưới quỹ gen, giữa các đơn vị cá nhân tổ chức, giữa các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, nghiên cứu nguồn gen lưu trữ bảo tồn cần có cơ chế phù hợp nhất để không mất nguồn gen nhưng cũng không quá nặng nề về số lượng; cần sớm có có chế bàn giao nguồn gen quý hiếm; quy chế hoạt động cụ thể cho mạng lưới quỹ gen; cơ chế đặc thù cho những nguồn gen đặc biệt…
Phát biểu kết luận, Thứ trưởng Trần Hồng Thái đánh giá Chương trình trong thời gian qua đã đem lại hiệu quả to lớn cho phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường và quốc phòng - an ninh của đất nước. Trong đó, ghi nhận sự tham gia đóng góp tích cực của các Bộ, ngành, địa phương, các đơn vị nghiên cứu và các nhà khoa học. Các báo cáo cho thấy sự đóng góp trong nhiều lĩnh vực khác nhau như tạo giống cây trồng vật nuôi mới, giống thuỷ sản mới hay cân nhắc ứng dụng thêm các công nghệ mới như đồng vị bức xạ, năng lượng nguyên tử tạo ra thế hệ gen mới. Thứ trưởng nhấn mạnh, cần hoàn thiện cơ chế triển khai và chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp và người dân; đồng thời đẩy mạnh chia sẻ kinh nghiệm, tri thức quốc tế, kết nối trung ương tới địa phương trong xây dựng, triển khai khung Chương trình để không bị gián đoạn.
Thời gian tới, công tác bảo tồn và phát triển nguồn gen cần tiếp tục được duy trì và đẩy mạnh hơn nữa. Điều này được khẳng định tại Nghị quyết số 36/NQ-TW của Bộ Chính trị về phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ phát triển bền vững đất nước trong tình hình mới, Nghị quyết số 189/NQ-CP ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW, Bộ Khoa học và Công nghệ được giao nhiệm vụ xây dựng Chương trình bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gen giai đoạn 2026-2030, trình Thủ tướng Chính phủ trong Quý I/2025.
Theo vista.gov.vn
Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Bùi Thế Duy cho biết, “về mặt công nghệ, chúng ta có thể đi sau thế giới rất nhiều, nhưng các tổ chức quốc tế đều ghi nhận chúng ta tiên phong về quản trị trí tuệ nhân tạo (AI)”.
Ngày 10/12/2024 tại Hà Nội, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) tổ chức phiên họp đánh giá nền tảng Hệ thống quản lý nhiệm vụ KH&CN cấp quốc gia (STM) với các Sở KH&CN. Phiên họp được diễn ra dưới hình thức trực tiếp và trực tuyến.
Vướng mắc cơ chế tài chính trong việc sử dụng là nguyên nhân khiến quỹ phát triển khoa học công nghệ của DN tồn đọng hàng nghìn tỷ đồng. Do vậy, cần thiết phải gỡ điểm nghẽn để DN không ngại chi, sợ chi khoản quỹ này.
Trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, cần tăng cường nghiên cứu, đề xuất các cơ chế, chính sách khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST) mang tính đặc thù, giải pháp đột phá, vượt trội để kịp thời giải quyết các vấn đề cấp bách, trọng điểm của quốc gia.
Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Lê Xuân Định cho biết, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu trong lĩnh vực KH,CN&ĐMST, với Chỉ số đổi mới sáng tạo (ĐMST) toàn cầu liên tục tăng. Tuy nhiên, để cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 thực sự lan tỏa và tạo ra bước ngoặt, cần có những đột phá mạnh mẽ hơn nữa, đặc biệt trong lĩnh vực KH&CN, với các chính sách và giải pháp đột phá tập trung vào ba lĩnh vực trọng yếu: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và vật liệu mới.
Ở cấp độ một quốc gia hay một địa phương, vùng lãnh thổ, chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội được xem là cơng cụ quản lý then chốt trong quá trình thực hiẹ̛n chính sách cơng, nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và quản lý các thành tựu phát triển. Chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội là mợt cơng cụ quản lý và điều hành vĩ mơ nền kinh tế quốc da̛n cũng như một địa phương, vùng lãnh thổ.