Rong nho biển (Caulerpa lentillifera J. Agardh. 1837) còn gọi là trứng cá Hồi xanh (green caviar) được sử dụng làm thức ăn truyền thống ở các nước Nhật Bản, Philippines… dưới dạng rau xanh hoặc salad. Do có giá trị kinh tế cao (giá bán ở thị trường Nhật Bản khoảng 60 USD/kg rong tươi) và nhu cầu tăng nhanh trong những năm gần đây nên rong nho biển đã được nuôi trồng tại Nhật Bản và một số nước Đông Nam Á.
Từ tháng 5/2012 đến tháng 7/2013 được sự phê duyệt, cấp kinh phí của Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Khánh Hòa, Viện Hải dương học đã phối hợp với UBND huyện Trường Sa, Vùng 4 Hải Quân thực hiện đề tài “Chuyển giao kỹ thuật trồng, chế biến và bảo quản rong nho biển (Caulerpa lentillifera J. Agardh. 1837) cho quân và dân huyện Trường Sa, tỉnh Khánh Hòa” nhằm hoàn thiện mô hình trồng, tập huấn chuyển giao cho quân và dân huyện Trường Sa kỹ thuật trồng rong nho biển trong bể composite, cách chế biến và bảo quản rong nho biển phù hợp với điều kiện tại Trường Sa, góp phần bổ sung nguồn rau xanh cho quân và dân sống trên đảo.
Đề tài đã xây dựng trại trồng rong nho biển tại Vùng 4 Hải Quân để triển khai thực hiện 2 mô hình trồng đáy và trồng treo rong nho biển trong bể composite. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy rong nho biển sinh trưởng và phát triển tốt nhất ở điều kiện độ mặn khoảng 33- 33,5‰, nhiệt độ khoảng 25 - 300C, cường độ ánh sáng khoảng 15.000 Lux, chất đáy (thể nền) thích hợp cho rong nho phát triển là bùn cát hoặc cát bùn.
Nguồn giống rong nho biển có thể được cung cấp bởi Viện Hải dương học, yêu cầu của rong nho biển làm giống là phải khỏe mạnh, sạch rong tạp và không có sinh vật sống bám trên rong. Cắt các đoạn rong dài từ 10 - 15 cm (gồm thân đứng và thân bò) hoặc các thân đứng để cấy trồng trong bể.
Mô hình trồng đáy
Đáy bể trồng rong nho biển được phủ một lớp cát bùn dày khoảng 10 cm để cấy trồng trực tiếp rong nho lên trên. Các bể trồng rong được bơm đầy nước biển và thay nước vài lần trước khi cấy trồng rong nho. Trọng lượng ban đầu của rong nho giống cấy trồng trong bể có thể dao động từ 200 - 400 g tươi/m2.
Sau 2 tháng trồng trong bể, rong nho biển phát triển tốt, năng suất rong toàn tản đạt khoảng 4,64 kg rong tươi/m2, tốc độ sinh trưởng đạt 1,77%/ngày. Tỷ lệ khối lượng thân đứng so với toàn tản đạt 62,64%, trong đó tỷ lệ khối lượng thân đứng > 5cm (phần sử dụng làm thực phẩm) so với toàn tản đạt 28,74%.
Mô hình trồng treo
Rong nho biển có thể được trồng treo trên các vỉ lưới nhựa cứng có kích thước khoảng 25 cm x 50 cm (S= 0,13 m2/vỉ) hoặc lớn hơn. Mật độ trồng ban đầu là 50 g tươi/vỉ (400 g tươi/m2). Các vỉ nhựa được treo trong bể chứa đầy nước biển, cách đáy khoàng 20 - 30 cm.
Sau 2 tháng trồng, rong nho biển phát triển phủ đầy trên bề mặt và xung quanh vỉ lưới, năng suất đạt 2,67 kg rong tươi/m2, tốc độ sinh trưởng đạt 1,25%/ngày. Tỷ lệ khối lượng thân đứng so với toàn tản chiếm 51,51%, trong đó, tỷ lệ khối lượng thân đứng > 5 cm so với toàn tản đạt 20,98%.
Mô hình trồng treo và trồng đáy rong nho biển trong bể ít choán diện tích, phù hợp điều kiện ngoài đảo. Rong nho phát triển nhanh, cho năng suất cao, là thực phẩm giàu dinh dưỡng.
Để tăng năng suất và trọng lượng thân đứng > 5 cm (phần thu hoạch để sử dụng) của rong nho biển trồng trong bể, có thể bón bổ sung phân hữu cơ làm từ bột cá (fertiplus 4-3-3) cho các bể trồng rong với hàm lượng khoảng 27g/m3, khoảng cách các lần bón phân khoảng 15 ngày/lần. Rong nho có bón phân hữu cơ làm từ bột cá có thể đạt năng suất hơn 10 kg rong tươi/m2/vụ (2 tháng) và có thể duy trì năng suất cao trong bể quanh năm.
Sản phẩm rong nho biển trồng trong bể bón phân hữu cơ làm từ bột cá đã được kiểm nghiệm, dư lượng Nitrat và vi sinh vật luôn thấp hơn giới hạn cho phép của Bộ Y Tế (quyết định 867/1998/QĐ - BYT) nên đạt chỉ tiêu về an toàn vệ sinh thực phẩm.
Rong nho biển trồng trong bể được thu hoạch bằng phương pháp thu tỉa (chỉ ngắt, hái những thân đứng dài hơn 5 cm để ăn) với khoảng cách 7-10 ngày/lần. Phần rong còn lại trong bể tiếp tục được chăm sóc, rong sẽ tiếp tục phát triển và duy trì sinh lượng cao quanh năm. Phần thân đứng sau khi thu hoạch được sục khí mạnh trong khoảng 16-24 giờ để rong được sạch và bảo quản lâu hơn (khoảng 7-10 ngày). Rong nho biển thường được sử dụng ở dạng tươi, ăn như rau xanh, ăn kèm với các món ăn khác (thịt, cá, đồ hộp...) hoặc nấu canh.
Đề tài cũng đã tập huấn cho 40 cán bộ, chiến sĩ các kỹ thuật trồng, chế biến và bảo quản rong nho biển, đồng thời cung cấp hơn 100 kg sản phẩm rong nho biển cho các bếp ăn của một số đơn vị tại Vùng 4 Hải Quân và một số đảo nhằm quảng bá sử dụng rong nho biển làm thực phẩm bổ sung rau xanh cho quân và dân sống trên các đảo ở Trường Sa.
Lãnh đạo Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết trong năm 2025 sẽ tập trung xây dựng và hoàn thiện cơ chế chính sách, tạo động lực đột phá cho khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.
PhuthoPortal - Ngày 7/1/2025, Chủ tịch UBND tỉnh ký ban hành Quyết định số 42/QĐ-UBND công bố kết quả Bộ chỉ số đánh giá, xếp hạng mức độ Chuyển đổi số trong các cơ quan nhà nước tỉnh Phú Thọ năm 2024.
(Chinhphu.vn) - Tổng Bí thư Tô Lâm bày tỏ mong muốn, các trí thức, nhà khoa học phải là lực lượng nòng cốt để đưa Việt Nam đứng vào nhóm 3 nước dẫn đầu Đông Nam Á về nghiên cứu và phát triển trí tuệ nhân tạo; nhóm 50 nước đứng đầu thế giới về năng lực cạnh tranh số và chỉ số phát triển Chính phủ điện tử; tối thiểu có 5 doanh nghiệp công nghệ số ngang tầm các cường quốc công nghệ vào năm 2030
Gần 25 năm sau khi đề án Xây dựng các phòng thí nghiệm trọng điểm được chính phủ phê duyệt vào năm 2000, cho đến nay ngành KH&CN chưa có thêm một đề án đầu tư về cơ sở hạ tầng KH&CN hiện đại ở quy mô quốc gia, trong khi đó là một trong những yếu tố nền tảng để KH&CN Việt Nam có thể tạo ra những đột phá trong tương lai.
Bộ Chính trị chỉ đạo ưu tiên nguồn lực quốc gia cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, đồng thời thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương do Tổng Bí thư Tô Lâm làm Trưởng ban.
Sáng ngày 18/12/2024, Học viện Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST) chính thức khai giảng lớp Bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng hội nhập quốc tế về KH,CN&ĐMST.