Tổng Bí thư Tô Lâm vừa ký ban hành Nghị quyết số 70-NQ/TW ngày 20/8/2025 về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Nghị quyết nêu rõ: Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết số 55-NQ/TW, ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, ngành năng lượng đã duy trì tăng trưởng ổn định, cơ bản bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao cho phát triển nhanh và bền vững, bảo đảm quốc phòng, an ninh đất nước và nâng cao đời sống người dân.
Ngành năng lượng vẫn tồn tại nhiều hạn chế, yếu kém. Một số vấn đề nêu trong Nghị quyết 55 chưa được khắc phục triệt để, nhiều chỉ tiêu khó đạt. Thể chế, chính sách và công tác quản lý phát triển ngành còn bất cập; tiến độ nhiều dự án điện chậm; tiềm năng chưa được khai thác hiệu quả. Nguồn cung còn phụ thuộc nhập khẩu, nguy cơ thiếu điện trong giai đoạn tăng trưởng cao là hiện hữu. Hạ tầng năng lượng thiếu, chưa đồng bộ; lưới điện chưa kết nối hiệu quả với các nguồn điện; công nghệ chậm đổi mới, nội địa hóa thiết bị quan trọng còn thấp. Chất lượng nhân lực, năng suất lao động còn hạn chế; thị trường năng lượng thiếu liên thông, nhất là thị trường điện còn nhiều bất cập. Chính sách giá chưa phù hợp cơ chế thị trường, còn tình trạng bù chéo giá điện.
Nguyên nhân chủ yếu gồm: Nhận thức chưa đầy đủ về vai trò ngành năng lượng; chính sách, pháp luật chậm hoàn thiện, thiếu cơ chế huy động nguồn lực và khuyến khích năng lượng sạch; quy hoạch thiếu linh hoạt, thực hiện thiếu đồng bộ; thủ tục hành chính rườm rà; chiến lược phát triển thiếu ổn định, chưa gắn với quy hoạch kinh tế - xã hội; công tác chỉ đạo, giám sát chưa hiệu quả; chưa tạo được đột phá về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Để đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững đất nước trong thời gian tới, nhất là thực hiện 2 mục tiêu chiến lược đến năm 2030 và năm 2045, công tác bảo đảm an ninh năng lượng có vai trò rất quan trọng, năng lượng phải đi trước một bước, đáp ứng đầy đủ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống nhân dân.
Mục tiêu, tầm nhìn
Mục tiêu tổng quát đến năm 2030
Bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia; cung cấp năng lượng đầy đủ, ổn định, chất lượng cao, giảm phát thải cho phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống người dân, bảo vệ môi trường sinh thái. Từng bước chuyển đổi năng lượng đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước và cam kết quốc tế. Ngành năng lượng phát triển hài hòa giữa các phân ngành với hạ tầng đồng bộ và thông minh, đạt trình độ tiên tiến của khu vực ASEAN. Thị trường năng lượng cạnh tranh, minh bạch, hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khai thác nhanh và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên năng lượng trong nước kết hợp với xuất nhập khẩu năng lượng hợp lý; năng lượng được sử dụng tiết kiệm và hiệu quả hơn. Nhiều vật tư thiết bị chính trong các phân ngành năng lượng được sản xuất trong nước; lưới truyền tải, phân phối điện được xây dựng hiện đại, thông minh.
Mục tiêu cụ thể đến năm 2030
- Tổng cung năng lượng sơ cấp khoảng 150 - 170 triệu tấn dầu quy đổi; tổng công suất các nguồn điện khoảng 183 - 236 GW hoặc có thể cao hơn tùy thuộc vào nhu cầu hệ thống và tình hình phát triển kinh tế - xã hội theo thời kỳ; tổng sản lượng điện khoảng 560 - 624 tỉ KWh. Tỉ lệ năng lượng tái tạo trong tổng cung năng lượng sơ cấp khoảng 25 - 30%.
- Tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng khoảng 120 - 130 triệu tấn dầu quy đổi.
- Hệ thống điện thông minh, hiệu quả, có khả năng kết nối an toàn với lưới điện khu vực; bảo đảm cung cấp điện an toàn, đáp ứng tiêu chí N-1 đối với vùng phụ tải quan trọng và N-2 đối với vùng phụ tải đặc biệt quan trọng. Độ tin cậy cung cấp điện năng và chỉ số tiếp cận điện năng thuộc tốp 3 nước dẫn đầu ASEAN.
- Các cơ sở lọc dầu đáp ứng tối thiểu 70% nhu cầu xăng dầu trong nước; mức dự trữ xăng dầu đạt khoảng 90 ngày nhập ròng. Phát triển cơ sở đầy đủ năng lực nhập khẩu khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) theo nhu cầu cấp cho các nguồn điện khí LNG và các nhu cầu khác; hình thành các trung tâm năng lượng tập trung khí LNG hài hòa các vùng miền.
- Tỉ lệ tiết kiệm năng lượng trên tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng so với kịch bản phát triển bình thường khoảng 8 - 10%.
- Giảm phát thải khí nhà kính từ hoạt động năng lượng so với kịch bản phát triển bình thường khoảng 15 - 35%.
Tầm nhìn đến năm 2045
Bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia; thị trường năng lượng cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, minh bạch, hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; ngành năng lượng phát triển đồng bộ, bền vững, sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường, giảm phát thải khí nhà kính và thích ứng với biến đổi khí hậu; hệ thống hạ tầng năng lượng thông minh, hiện đại, kết nối hiệu quả với khu vực và quốc tế; chất lượng nguồn nhân lực, trình độ khoa học - công nghệ và năng lực quản trị ngành năng lượng đạt trình độ ngang với các nước công nghiệp phát triển hiện đại.
Nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu
Nghị quyết đã đề ra 7 nhóm nhiệm vụ, giải pháp sau:
1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và sự tham gia của cả hệ thống chính trị và Nhân dân trong bảo đảm an ninh năng lượng.
2. Hoàn thiện thể chế, chính sách để trở thành lợi thế cạnh tranh, nền tảng vững chắc, động lực mạnh mẽ thúc đẩy phát triển năng lượng.
3. Phát triển nguồn cung và hạ tầng năng lượng, bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng.
4. Đẩy mạnh tiết kiệm năng lượng, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, thực hiện linh hoạt cam kết quốc tế về giảm phát thải; thiết lập các biện pháp quản trị và ứng phó với rủi ro.
5. Tập trung huy động mọi nguồn lực xã hội, khuyến khích mạnh mẽ khu vực tư nhân tham gia phát triển năng lượng.
6. Tạo đột phá trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực năng lượng.
7. Tăng cường hợp tác quốc tế, góp phần thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững ngành năng lượng và bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.
Theo vista.gov.vn
Phú Thọ - vùng đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam - là địa phương sở hữu kho tàng di sản văn hóa phong phú với hàng nghìn di tích lịch sử, khảo cổ học, kiến trúc nghệ thuật và di tích cách mạng kháng chiến
Trí tuệ nhân tạo đang trở thành động lực quan trọng trong quá trình chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo, mở ra cơ hội nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Việt Nam xác định phát triển AI theo hướng mở, an toàn và có chủ quyền, gắn với mục tiêu chiến lược đến năm 2030 thuộc nhóm ba quốc gia dẫn đầu Đông Nam Á về nghiên cứu và phát triển AI. Chủ trương này được thể hiện rõ trong Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị và Quyết định 1131/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ...
Chuyển đổi số (CĐS) đã trở thành xu thế tất yếu, là động lực mạnh mẽ thúc đẩy đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo (GD&ĐT). Nhận thức rõ điều đó, ngành GD&ĐT tỉnh Phú Thọ đã chủ động triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, phát huy hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng cơ sở dữ liệu (CSGL) tập trung, phát triển nguồn nhân lực số và đổi mới phương thức dạy, học, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trong thời kỳ số hóa.
Hướng tới nền nông nghiệp hiện đại, hiệu quả và bền vững, ngành Nông nghiệp tỉnh đang tập trung hỗ trợ nông dân đổi mới tư duy sản xuất, ứng dụng khoa học công nghệ và các giải pháp kỹ thuật tiên tiến vào tất cả các khâu từ sản xuất - chế biến - tiêu thụ. Nhiều mô hình sản xuất ứng dụng công nghệ 4.0 đã hình thành, tạo đột phá về năng suất, chất lượng và giá trị sản phẩm với chi phí thấp, góp phần quan trọng vào mục tiêu tái cơ cấu ngành theo hướng nâng cao giá trị gia tăng.
Công dân số được xem là yếu tố nền tảng đối với sự phát triển xã hội số, mở cánh cửa "ngôi nhà chuyển đổi số". Thời gian qua, tỉnh Phú Thọ đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp nhằm mục tiêu hình thành và phát triển công dân số.
Trong bối cảnh Chính phủ đang đẩy mạnh thực hiện Chương trình chuyển đổi số quốc gia, chuyển đổi số đã trở thành xu thế tất yếu, đóng vai trò then chốt trong công tác cải cách hành chính, nâng cao năng lực quản lý, điều hành của bộ máy nhà nước. Thời gian qua, các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị và chính quyền địa phương hai cấp của tỉnh đang bước vào giai đoạn tăng tốc trong việc ứng dụng công nghệ thông tin và dữ liệu số vào công tác điều hành, quản lý đã ...
Liên kết trang
0
3
0